Đó là kiến nghị của nhóm chuyên gia trường Đại học Kinh tế Quốc dân về một số chủ đề quan trọng nhằm phát triển kinh tế - xã hội trong quý I/2024.
Theo các chuyên gia trường Đại học Kinh tế Quốc dân, việc áp thuế TTTC sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) trong thời gian hưởng ưu đãi miễn giảm thuế, vốn có thuế suất thực tế thấp hơn 15%. Các ưu đãi về thuế của Việt Nam dành cho các doanh nghiệp ngoại trước đó sẽ không còn tác dụng nên có thể ảnh hưởng tới môi trường đầu tư chung.
Trên thực tế, hiện nay vẫn chưa có đánh giá tổng thể về hệ thống các ưu đãi về thuế TNDN và các biện pháp phi thuế để có phương án thay thế sau khi thuế TTTC được áp dụng, “giữ chân” cũng như thu hút nhà đầu tư nước ngoài mới vào Việt Nam, đồng thời gia tăng vị thế của các nhà đầu tư đang có.
Do vậy, nhóm chuyên gia trường Đại học Kinh tế Quốc dân đề xuất cần đánh giá toàn diện và sâu sắc về việc thực hiện thuế TTTC. Cụ thể, Chính phủ cần có những nghiên cứu chuyên sâu về việc thực hiện thuế TTTC và tác động của nó đến FDI. Việc này nhằm mục đích hình thành đội ngũ chuyên gia nghiên cứu, tham mưu cho Chính phủ thực hiện hiệu quả các giải pháp đề ra. Nội dung nghiên cứu về thực hiện thuế suất TTTC và tác động đến FDI bao gồm:
Thứ nhất, nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong việc thực thi Thuế TTTC, vì ưu đãi thuế TNDN sẽ không còn là lợi thế cạnh tranh của Việt Nam so với các nước trong khu vực. Các nước nhập khẩu nhiều vốn trong ASEAN cũng đang rốt ráo nghiên cứu chính sách mới để thích nghi với thuế TTTC. Điển hình là Singapore và Thái Lan đã bổ sung nhiều chính sách nhằm thích ứng với thuế TTTC. Thái Lan cũng đã lập tổ công tác của Chính phủ về gói chính sách nêu trên.
Thứ hai, nghiên cứu sớm các quy định chi tiết theo hướng giảm khả năng khiếu kiện của doanh nghiệp chịu thuế; đồng thời xác định nguyên tắc giải quyết khi khiếu kiện xảy ra, đảm bảo Nhà nước không bị thiệt hại. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu tài chính, công cụ xác định thuế suất hiệu quả bằng ứng dụng công nghệ thông tin cũng cần được chuẩn bị tốt để hỗ trợ, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc tính và kê khai nghĩa vụ thuế. Đồng thời, Chính phủ cũng cần tiếp tục đẩy mạnh và tăng cường các kênh đối thoại, tham vấn ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp và các đơn vị tư vấn thuế chuyên nghiệp trong quá trình xây dựng khung pháp lý về chính sách, cơ chế quản lý để các giải pháp khi triển khai sẽ thiết thực và nhận được sự đồng thuận tích cực từ phía doanh nghiệp.
Cùng với đó, nhóm chuyên gia của trường Đại học Kinh tế Quốc dân cũng kiến nghị thành lập Quỹ hỗ trợ đầu tư từ nguồn thu tăng thêm khi thực hiện thuế TTTC.
Theo nhóm chuyên gia, đối với Việt Nam, việc tham gia triển khai thuế TTTC góp phần tăng cường hội nhập quốc tế nói chung, cải cách hệ thống thuế theo hướng phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế nói riêng; góp phần tăng nguồn thu từ thuế, hạn chế các hiện tượng trốn, tránh thuế, chuyển giá... của các tập đoàn đa quốc gia tại Việt Nam. Đây là một yếu tố tích cực của việc áp dụng thuế TTTC. Với nguồn thu tăng thêm, Việt Nam cần có kế hoạch sử dụng một cách hiệu quả nhất. Cụ thể, Quốc hội giao cho Chính phủ trong năm 2024 khẩn trương xây dựng Nghị định của Chính phủ về việc thành lập Quỹ hỗ trợ đầu tư từ nguồn thu tăng thêm khi thực hiện thuế tối thiểu toàn cầu và các nguồn hợp pháp khác.
Đồng thời, quản lý, sử dụng quỹ hỗ trợ đầu tư một cách hợp lý, đúng mục đích nhằm ổn định môi trường đầu tư, khuyến khích thu hút các nhà đầu tư chiến lược, tập đoàn đa quốc gia và hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước đối với một số lĩnh vực cần khuyến khích đầu tư.
Cùng với đó, rà soát tổng thể để hoàn thiện đồng bộ hệ thống chính sách, pháp luật về khuyến khích đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần tăng trưởng kinh tế;
Mặt khác, hỗ trợ thêm doanh nghiệp bằng biện pháp tăng thêm các khoản chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN, bao gồm: Chi đào tạo mới, đào tạo lại nguồn nhân lực, đặc biệt nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu nhân lực cho các doanh nghiệp, tăng mức trích khấu hao tài sản cố định góp phần thu hồi nhanh vốn đầu tư; Chi phí nghiên cứu và phát triển; Chi phí đầu tư trang thiết bị, nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, hoặc chuyển giao công nghệ và chi bảo vệ môi trường, tăng trưởng xanh (bao gồm nghiên cứu và ứng dụng).