Chia sẻ tại Hội thảo "Tăng cường khả năng tiếp cận và hấp thụ vốn của khu vực doanh nghiệp: Khó khăn, thách thức và quyết tâm", tổ chức sáng ngày 22/8, Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú cho biết, chưa bao giờ điều hành chính sách tiền tệ khó khăn như hiện nay. Trong khi các nước vẫn đang thắt chặt tiền tệ thì chúng ta giảm lãi suất, nới lỏng tiền tệ. Đến nay nhiều khoản nợ giãn hoãn từ dịch COVID-19 chưa xong, chúng ta lại tiếp tục giãn hoãn cho nhiều khoản nợ khác.
Đánh giá về những khó khăn năm 2023, ông Đào Minh Tú cho biết, tăng trưởng kinh tế ở mức thấp, khu vực sản xuất thu hẹp, số lượng doanh nghiệp thành lập mới, doanh nghiệp hoạt động trở lại giảm, trong khi doanh nghiệp giải thể tăng lên. Trước bối cảnh tình hình kinh tế trong và ngoài nước có nhiều thách thức nên khả năng hấp thụ vốn tín dụng của doanh nghiệp tại Việt Nam vẫn còn hạn chế. Tháng 7, tăng trưởng tín dụng đạt khoảng 4,3%, giảm đáng kể so với cùng thời điểm năm 2022 (9,54%).
Đặt vấn đề nếu không tạo điều kiện cho tín dụng thì sẽ khó có tăng trưởng, Phó Thống đốc Thường trực bày tỏ lo ngại nếu "tháo" điều kiện tăng trưởng tín dụng thì nợ xấu tăng lên, khiến "cục máu đông" nợ xấu vừa mới tạm thời được xử lý lại quay trở lại. "Nếu nợ xấu tăng, chúng ta lại rơi vào vòng luẩn quẩn, tạo ra ách tắc vốn cho nền kinh tế", Phó Thống đốc Đào Minh Tú cho biết thêm.
Theo Phó Thống đốc, các ngân hàng đang đứng giữa 2 dòng nước, vừa phải đảm bảo an toàn nợ xấu, vừa phải tăng trưởng, chia sẻ, đồng hành, hỗ trợ doanh nghiệp cùng nhau vượt qua. Phó Thống đốc đánh giá các ngân hàng đã có nhiều nỗ lực để hỗ trợ khách hàng. Thực tế, các ngân hàng không thể lỗ, nếu ngân hàng lỗ sẽ dẫn đến đổ vỡ, kéo theo cả hệ thống khó khăn. Ngân hàng rất khác với doanh nghiệp, chỉ lãi ít lãi nhiều, chứ không thể lỗ. Không chỉ ở Việt Nam mà các nước cũng vậy.
Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã có nhiều nỗ lực để một mặt điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, đảm bảo kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ; sự an toàn của hệ thống ngân hàng góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, ngành cũng đã tích cực đưa ra nhiều chính sách để hỗ trợ các doanh nghiệp như: 4 lần hạ lãi suất điều hành, có các công cụ để hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng thương mại, giảm lãi suất cho vay, tiết giảm chi phí, có tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp...
Chia sẻ về định hướng của Ngân hàng Nhà nước những tháng cuối năm, Phó Thống đốc Đào Minh Tú cho biết, NHNN sẽ tiếp tục điều hành tín dụng theo đúng mục tiêu, định hướng đã đề ra; đồng thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tăng cường khả năng tiếp cận và hấp thụ vốn tín dụng của người dân, doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu phục hồi và phát triển kinh tế.
Trước những nỗ lực của ngành Ngân hàng, bà Hà Thu Giang, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế nhìn nhận Ngân hàng Nhà nước đã chủ động, kịp thời ban hành và quyết liệt chỉ đạo hệ thống các tổ chức tín dụng triển khai nhiều chính sách, giải pháp về tín dụng để xử lý hài hòa nhiều mục tiêu, vừa đảm bảo nhu cầu tín dụng cho nền kinh tế, triển khai các giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng vay vốn để hỗ trợ kinh tế phục hồi, vừa đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng, ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát... Toàn ngành Ngân hàng đã nỗ lực thực hiện các chủ trương, chính sách, giải pháp, trong đó nhiều giải pháp được thực hiện bằng chính nguồn lực của chính các tổ chức tín dụng.
Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế cũng chỉ ra bốn yếu tố chính dẫn đến sức hấp thụ vốn chưa cao, đó là:
Thứ nhất, do tác động của cầu đầu tư, sản xuất kinh doanh. Theo đó, các doanh nghiệp chưa kịp phục hồi hoàn toàn sau đại dịch COVID-19, lại kết hợp bị ảnh hưởng tiêu cực của suy giảm kinh tế trên phạm vi toàn cầu nên nhu cầu vay vốn và khả năng hấp thụ vốn giảm sút. Mặc dù các chỉ số kinh tế trong nước đang có xu hướng diễn biến tích cực như xuất khẩu tháng 7 tăng 2,1% so với tháng 6, chỉ số sản xuất công nghiệp IIP tăng 3,9%... song do ảnh hưởng dồn tích từ thị trường trong những tháng đầu năm nên tín dụng đến cuối tháng 7 vẫn thấp hơn so với cùng kỳ các năm trước.
Thứ hai, một số nhóm khách hàng có nhu cầu nhưng chưa đáp ứng điều kiện vay vốn, nhất là nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã do quy mô vốn nhỏ, vốn chủ sở hữu và năng lực tài chính, quản trị điều hành hạn chế, thiếu phương án kinh doanh khả thi, tình hình tài chính của doanh nghiệp nhỏ và vừa còn thiếu minh bạch...
Thứ ba, sự tác động từ khả năng hấp thụ tín dụng của nhóm bất động sản. Tín dụng bất động sản chiếm tỷ trọng khoảng 20% so với tín dụng chung nên khi tín dụng bất động sản tăng cao sẽ kéo theo tín dụng toàn hệ thống tăng. Tuy nhiên, hiện tín dụng bất động sản tăng thấp hơn so với tăng trưởng tín dụng chung. Dư nợ kinh doanh bất động sản trong 6 tháng đầu năm 2023 tăng trưởng 17,41%, vượt tốc độ tăng trưởng của cả năm 2022 là 10,73% nhưng dư nợ tiêu dùng, tự sử dụng bất động sản chiếm đến 65%, dư nợ tín dụng bất động sản lại giảm 1,12%. Trong 3 năm trở lại đây thì 2023 là năm đầu tiên xuất hiện xu hướng giảm trong khi cuối năm 2022 tăng 31,01%.
Thứ tư, sau thời gian kinh tế gặp khó khăn, mức độ rủi ro bị đánh giá cao hơn, khi hoạt động của doanh nghiệp khó chứng minh hiệu quả; tổ chức tín dụng rất khó khăn trong quyết định cho vay do không hạ được chuẩn tín dụng để đảm bảo an toàn hệ thống.
Trước thực tế khó khăn, thách thức và những tác động như trên, TS. Nguyễn Minh Thảo, Trưởng ban Nghiên cứu môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh, Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương (CIEM) đã đưa ra nhiều giải pháp khơi thông tài chính cho doanh nghiệp.
Về phía cung, TS Nguyễn Minh Thảo cho rằng, cần tiếp tục có các giải pháp phục hồi các kênh huy động vốn khác như chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp; hạ thấp các điều kiện để doanh nghiệp tiếp cận được vốn từ các Quỹ phát triển DNNVV, Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV; Bộ Tài chính đảm bảo hoàn thuế đúng hạn cho doanh nghiệp; coi trọng cải cách thể chế môi trường kinh doanh, giảm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp...
Về phía cầu, TS Nguyễn Minh Thảo cho rằng, cần tiếp tục triển khai hiệu quả các gói hỗ trợ người lao động như: Hỗ trợ tiền thuê nhà, cho vay ưu đãi hỗ trợ tạo việc làm thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội; triển khai hiệu quả gói hỗ trợ giảm thuế VAT 2%. Đồng thời, trong tổ chức thực thi cần theo dõi, đôn đốc, giám sát; sự đồng hành, tham gia của các hiệp hội và đẩy mạnh công tác truyền thông.