Dữ liệu do Tổng cục Thống kê (GSO) công bố vào ngày 29/6 cho thấy, GDP thực tế của Việt Nam tăng 6,93% so với cùng kỳ trong quý II/2024, tiếp nối đà tăng từ mức 5,87% so với cùng kỳ (đã được điều chỉnh tăng so với công bố trước đó) quý I/2024 và mức tăng 6,72% so với cùng kỳ trong quý II/2023 và vượt qua mức tăng 4,05% trong cùng quý vào năm 2023.
Tổng cộng, nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng 6,42% so với cùng kỳ trong nửa đầu năm 2024, vượt xa mức 3,84% trong nửa đầu năm 2023. Kết quả khả quan này tạo ra tín hiệu tích cực cho thời gian còn lại của năm 2024.
Triển vọng phía trước vẫn tích cực nhưng thận trọng hơn
Tăng trưởng trong quý II/2024 được củng cố nhờ sự đóng góp từ lĩnh vực sản xuất khi tiếp tục tăng trưởng ở quý thứ 5 liên tiếp, với mức tăng 10,0% so với cùng kỳ (quý I/2024: 7,2%) và lĩnh vực dịch vụ tăng 7,1% so với cùng kỳ (quý I/2024: 6,2%), là quý thứ 11 liên tiếp có kết quả tăng kể từ khi phục hồi sau đợt sụt giảm do đại dịch COVID-19. Hai lĩnh vực này lần lượt đóng góp 31% và 44% trong mức tăng trưởng 6,93% của quý II/2024. Trong nửa đầu năm 2024, lĩnh vực sản xuất đóng góp 29% và lĩnh vực dịch vụ đóng góp 45% trong mức tăng trưởng chung 6,42%, so với mức tương ứng là 28% và 49% trong quý I/2024.
Dữ liệu từ GSO cho thấy tổng thương mại bán lẻ ghi nhận mức tăng trưởng ổn định trong nửa đầu năm 2024, ở mức 8,6% so với cùng kỳ tính từ đầu năm đến tháng 6, so với mức 8,1% vào đầu năm 2024. Doanh số bán lẻ tăng 7,37% so với cùng kỳ tính đến tháng 6 trong khi cả dịch vụ du lịch và doanh số bán hàng của mảng khách sạn và ăn uống đều ghi nhận mức tăng 2 con số khi ngành du lịch chứng kiến sự phục hồi liên tục đối với lượng khách du lịch vào Việt Nam. Lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt 8,8 triệu tính từ đầu năm cho đến tháng 6, so với 5,6 triệu cùng kỳ năm ngoái.
Tuy nhiên, sự phục hồi của chi tiêu trong nước đã gây áp lực lên giá tiêu dùng, khiến chỉ số CPI toàn phần của Việt Nam tăng trong quý thứ 5 liên tiếp, lên 4,39% so với cùng kỳ trong quý II/2024 (3,77% trong quý I/2024), tiến gần đến ngưỡng trên của ngân hàng trung ương là 4,50%. Trái ngược với lạm phát toàn phần, CPI cơ bản (trừ thực phẩm, năng lượng và hàng hóa do các cơ quan nhà nước quản lý như giáo dục và dịch vụ y tế) đã giảm tốc trong quý 5 xuống còn 2,69% so với cùng kỳ (từ 2,81% trong quý I/2024).
GSO cho rằng, chi phí thực phẩm và nhà ở tăng là nguyên nhân chính gây ra lạm phát toàn phần, đặc biệt là do sự tăng giá của thịt lợn (do dịch tả lợn châu Phi cuối năm 2023), điện cũng như các dịch vụ y tế, giáo dục.
Trong tương lai, một yếu tố có thể tác động đến lạm phát là kế hoạch tăng lương tối thiểu 6% kể từ tháng 7/2024, mức tăng lớn hơn một chút so với mức 5,88% vào tháng 7/2022. Việt Nam đã tăng mức lương tối thiểu lần lượt là 7,3%, 6,5% và 5,3 % tương ứng vào các năm 2017, 2018 và 2019.
Trong quý II/2024, hoạt động ngoại thương tiếp tục mạnh mẽ, được thúc đẩy bởi nhu cầu của người tiêu dùng cũng như sự phục hồi nhu cầu ngành bán dẫn kể từ giữa năm 2023.
Bất chấp xung đột Nga-Ukraine và tình trạng gián đoạn vận chuyển ở Biển Đỏ đang diễn ra, xuất khẩu vẫn ghi nhận tháng thứ 4 tăng 2 con số, ở mức 10,5% so với cùng kỳ trong tháng 6 (13,9% trong tháng 5) trong khi nhập khẩu tăng 13,1% so với cùng kỳ năm trước (25,7% trong tháng 5). Trong nửa đầu năm 2024, xuất khẩu và nhập khẩu tăng lần lượt 14,0% và 16,6% so với cùng kỳ, đạt thặng dư thương mại 11,3 tỷ USD (cả năm 2024: 28,4 tỷ USD), gần bằng mức thặng dư 12,1 tỷ USD đạt được trong cả năm 2022.
Trong Báo cáo tăng trưởng kinh tế Việt Nam quý II/2024 của Bộ phận Nghiên cứu thị trường và Kinh tế toàn cầu, UOB vừa công bố, các chuyên gia của UOB đánh giá, mức thặng dư bên ngoài này sẽ giúp củng cố niềm tin vào đồng VND trong bối cảnh đồng đô la Mỹ vẫn mạnh như hiện nay. Phần lớn thặng dư thương mại đến từ thương mại với Mỹ trong khi Trung Quốc là nguồn thâm hụt thương mại lớn nhất của Việt Nam.
Về sản phẩm xuất khẩu, máy tính, điện thoại di động, thiết bị liên lạc, máy móc, dệt may và giày dép đạt tổng trị giá khoảng 110 tỷ USD trong nửa đầu năm 2024, chiếm gần 60% tổng kim ngạch xuất khẩu (189 tỷ USD) trong giai đoạn này.
Các nhà đầu tư nước ngoài phần lớn nhìn nhận tích cực về triển vọng dài hạn của Việt Nam trong những năm tới. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký từ đầu năm đến tháng 6/2024 đã tăng 13,1% so với cùng kỳ lên 15,2 tỷ USD, sau mức tăng 13,4% trong quý I/2024. Singapore là nguồn vốn đầu tư lớn nhất với 5,6 tỷ USD, vượt xa Nhật Bản (1,7 tỷ USD)...
Dòng vốn FDI thực hiện (hoặc giải ngân) vào Việt Nam từ đầu năm đến tháng 6 đạt 10,8 tỷ USD, hơn gấp đôi so với mức 4,6 tỷ USD trong quý I/2024. Lưu ý rằng, dòng vốn FDI thực tế vào Việt Nam đạt mức cao kỷ lục 23,2 tỷ USD vào năm 2023, vượt qua kỷ lục trước đó là 22,4 tỷ USD vào năm 2022. Trong khi đó, dòng vốn FDI đăng ký trong năm 2023 tăng 32% lên 36,6 tỷ USD từ 27,7 tỷ USD năm 2022, gần bằng mức cao kỷ lục 38 tỷ USD vào năm 2019.
Những dữ liệu FDI này cho thấy, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tiếp tục coi Việt Nam là điểm đến đầu tư quan trọng trong trung và dài hạn, trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu đang diễn ra quá trình tái cấu trúc. Sự gia tăng cả dòng vốn FDI thực hiện và đăng ký sẽ thúc đẩy hơn nữa các hoạt động trong nước trong các quý tới, bao gồm cả xây dựng và việc làm. Đây cũng là sự khẳng định niềm tin và cam kết của các doanh nghiệp nước ngoài đối với đất nước trong làn sóng phi toàn cầu hóa, giảm rủi ro và chuyển dịch chuỗi cung ứng hiện nay.
Với kết quả hoạt động trong quý II/2024 cao hơn kỳ vọng và tạo ra tín hiệu tích cực, triển vọng cho năm 2024 vẫn tươi sáng. Tuy nhiên, các chuyên gia UOB lưu ý rằng, nửa cuối năm 2024 có thể sẽ chứng kiến hiệu quả hoạt động trầm lắng hơn, do bị ảnh hưởng bởi cơ sở dữ liệu cao hơn trong nửa cuối năm 2023 cũng như những rủi ro vẫn còn hiện hữu, bao gồm xung đột giữa Nga - Ukraine, hay giữa Israel - Hamas, có thể làm gián đoạn các thị trường năng lượng và thương mại toàn cầu.
Tuy nhiên, sự phục hồi của nhu cầu ngành bán dẫn, tăng trưởng ổn định ở Trung Quốc và khu vực Đông Nam Á cũng như khả năng nới lỏng chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương lớn sẽ hỗ trợ cho triển vọng của Việt Nam. “Chúng tôi giữ nguyên dự báo tăng trưởng của Việt Nam ở mức 6,0% cho năm 2024, so với mục tiêu tăng trưởng của Chính phủ là 6,0-6,5%”, báo cáo viết.
Lãi suất tiếp tục ổn định
Nhận định về thị trường tiền tệ, các chuyên gia của UOB cho rằng, sự mất giá gần đây của đồng VND trước đồng USD mạnh lên và tỷ lệ lạm phát gia tăng có thể khiến Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) thận trọng trong mọi thay đổi về lãi suất chính sách.
Với lưu ý rằng đà tăng trưởng hiện tại có thể sẽ giảm bớt trong nửa cuối năm 2024, UOB tin rằng: “NHNN sẽ duy trì lãi suất tái cấp vốn ở mức hiện tại là 4,50%”.
Cũng theo UOB, với việc Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đi trước một bước bằng việc hạ lãi suất trong tháng 6/2024 và Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) có thể bắt đầu nới lỏng lập trường chính sách trong nửa cuối năm, điều này có thể mở ra cơ hội cho NHNN đi theo xu hướng chung.
Còn trong thời điểm hiện tại, thay vì tiếp tục hạ lãi suất, chính phủ đang tiếp tục tập trung vào các biện pháp phi lãi suất để hỗ trợ nền kinh tế.