CPI tháng 3/2024 giảm 0,23% so với tháng trước

CPI tháng 3/2024 giảm so với tháng trước chủ yếu do nhu cầu của người dân giảm sau dịp Tết Nguyên đán khiến giá hàng hóa và dịch vụ thiết yếu trên thị trường giảm, đặc biệt là giá lương thực, thực phẩm.

CPI tháng 3/2024 giảm 0,23% so với tháng trước

Theo số liệu Tổng cục Thống kê vừa công bố, tháng 3/2024, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) giảm 0,23% so với tháng trước, tăng 1,12% so với tháng 12/2023 và tăng 3,97% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2024, CPI tăng 3,77% so với cùng kỳ năm trước.

Trong mức giảm 0,23% của CPI tháng 3/2024 so với tháng trước, có 7 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm và 4 nhóm hàng có chỉ số giá tăng.

Trong 7 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm mạnh nhất với mức 0,76% (tác động làm CPI chung giảm 0,25 điểm phần trăm), trong đó: Lương thực giảm 0,42% ; thực phẩm giảm 1,19% (tác động làm CPI chung giảm 0,25 điểm phần trăm); ăn uống ngoài gia đình tăng 0,19%.

Kế đến là nhóm giáo dục giảm 0,29%, trong đó dịch vụ giáo dục giảm 0,34%. Nguyên nhân chủ yếu do ngày 31/12/2023, Chính phủ ban hành Nghị định số 97/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2021/NĐ-CP ngày 27 tháng 8 năm 2021 của Chính phủ, trong đó yêu cầu giữ ổn định mức thu học phí từ năm học 2023-2024 bằng mức thu học phí của năm học 2021-2022 đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông công lập, theo đó một số trường học đã điều chỉnh giảm mức học phí sau khi đã thu theo Nghị định số 81/2021/NĐ-CP.

Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch cũng ghi nhận mức giảm 0,12% do nhu cầu mua sắm, du xuân sau Tết Nguyên đán giảm.

Nhóm giao thông giảm 0,03%, trong đó, chỉ số giá dịch vụ giao thông công cộng giảm 5,76%, chủ yếu do nhu cầu giảm sau dịp Tết Nguyên đán; chỉ số giá xăng tăng 0,72%; chỉ số giá dầu diezen giảm 1,15% do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá xăng dầu trong nước; dịch vụ rửa xe, bơm xe giảm 0,8%; dịch vụ trông giữ xe giảm 0,09%; dịch vụ bảo dưỡng phương tiện đi lại tăng 0,36%.

Các nhóm: Đồ uống và thuốc lá; may mặc, mũ nón, giày dép; bưu chính, viễn thông cũng lần lượt giảm 0,07%, 0,06% và 0,01%.

cpi-5904-4335.png
Tốc độ tăng/giảm CPI tháng 3/2024 so với tháng trước

Ở chiều tăng giá, nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng mạnh nhất với mức tăng 0,29%, trong đó, giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,15% và giá dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 0,33%, chủ yếu do giá cát tăng khi thiếu nguồn cung; giá điện sinh hoạt tăng 0,47%, nước sinh hoạt tăng 2,1% do nhu cầu tiêu dùng tăng; giá gas tăng 0,49%...

Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,02%, trong đó chỉ số giá thuốc các loại tăng 0,08% chủ yếu do một số mặt hàng thuốc giảm đau, hạ sốt, chống dị ứng, chống viêm, thuốc dùng cho đường hô hấp tăng giá khi thời tiết chuyển mùa nồm ẩm tại một số địa phương miền Bắc.

Hai nhóm còn lại là nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác cũng lần lượt tăng nhẹ 0,01% và 0,06%.

Quảng cáo

Tính chung cả quý I/2024, CPI tăng 3,77% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó: Giáo dục tăng 9,02%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 6,51%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 6,20%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 5,40%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,53%; đồ uống và thuốc lá tăng 2,33%; giao thông tăng 2,27%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,54%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 1,35%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,21%. Riêng bưu chính viễn thông giảm 1,46%.

Số liệu của Tổng cục Thống kê cũng cho thấy lạm phát cơ bản tháng 3/2024 tăng 0,03% so với tháng trước và tăng 2,76% so với cùng kỳ năm trước. Trong quý I/2024, lạm phát cơ bản bình quân tăng 2,81% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức CPI bình quân chung (tăng 3,77%) chủ yếu do giá lương thực, xăng dầu, giá dịch vụ y tế và giá dịch vụ giáo dục là yếu tố tác động tăng CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính toán lạm phát cơ bản.

Lạm phát được kiểm soát ở mức phù hợp để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế

Đánh giá về mức lạm phát của tháng 3 và quý I/2024, bà Nguyễn Thu Oanh, Vụ trưởng Vụ Thống kê giá (Tổng cục Thống kê) cho rằng, lạm phát của Việt Nam đang được kiểm soát ở mức phù hợp để hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế.

Tuy nhiên, theo bà Oanh, mặc dù lạm phát trong tầm kiểm soát nhưng vẫn phải lưu ý đến áp lực lạm phát thời gian tới. Áp lực này cần nhìn nhận từ hai yếu tố là áp lực bên ngoài và nội tại của nền kinh tế Việt Nam.

Áp lực bên ngoài là dù lạm phát thế giới có xu hướng hạ nhiệt song vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro khi chuỗi cung ứng bị gián đoạn có thể tạo nên cú sốc cho lạm phát.

Trong nước, giá lương thực có xu hướng tăng, nhất là giá gạo, hiện nhu cầu xuất khẩu gạo vẫn cao khiến giá gạo tăng lên. Ngoài ra, giá điện có khả năng tăng tiếp, khi chỉ số giá điện tăng 10% tác động làm CPI tăng 0,33%. Trong năm 2024 nhu cầu điện sản xuất tiêu dùng vẫn tăng lên, khó tránh việc EVN tăng giá điện.

Bên cạnh đó, giá xăng cũng có xu hướng tăng lên, nếu giá xăng tăng 10% thì sẽ tác động làm CPI tăng 0,36%.

Ngoài ra, áp lực tăng lương từ 1/7/2024 cũng gia tăng kỳ vọng lạm phát, kéo giá các mặt hàng tiêu dùng tăng lên.

Trên cơ sở đó, bà Oanh cho biết, Tổng cục Thống kê đã xây dựng 3 kịch bản dự báo lạm phát cho năm 2024 tương ứng với tốc độ tăng của CPI.

Ở kịch bản 1, dự báo lạm phát dựa trên dự báo CPI cả năm 2024 tăng 3,8%, thì lạm phát sẽ tăng trong 6 tháng đầu năm. Ở kịch bản 2 và 3, với dự báo CPI tăng lần lượt là 4,2% và 4,5% thì lạm phát sẽ tăng mạnh hơn trong 6 tháng cuối năm, đặc biệt là quý IV/2024.

Do đó, để có thể kiểm soát lạm phát năm 2024 trong mục tiêu, lãnh đạo Vụ Thống kê giá khuyến nghị, đối với các hàng hóa, dịch vụ do nhà nước quản lý giá như điện, y tế, giáo dục,... cần phải căn cứ vào tình hình thực tế, từ số liệu của các bộ, ngành nhà nước có thể lựa chọn mức điều chỉnh phù hợp, đảm bảo việc thực hiện điều chỉnh đồng bộ và chọn thời điểm điều chỉnh thích hợp. Bên cạnh đó, cần phải đảm bảo việc cung ứng điện để đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của người dân, doanh nghiệp.

Lãnh đạo Vụ Thống kê giá cũng lưu ý phải theo dõi biến động của thị trường hàng hóa thế giới đồng thời, theo dõi sát diễn biến các mặt hàng thiết yếu như gạo, lương thực, xăng dầu, gas,.. đảm bảo có sự điều hành cho phù hợp, bình ổn giá cả, xử lý nghiêm trường hợp găm hàng, thổi giá,...

Ngoài ra, cần điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, phối hợp hài hòa với các chính sách vĩ mô khác.

Theo Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ Copy

Cùng chuyên mục Kinh tế ngành

Rủi ro thuế quan tác động đến phát hành trái phiếu doanh nghiệp phi tài chính năm 2025

Hoạt động phát hành sẽ duy trì ổn định, tiếp tục dẫn dắt bởi các chủ đầu tư (CĐT) bất động sản (BĐS) nhà ở. Ngành ô tô và điện có thể tăng trưởng mạnh phát hành mới, trong khi các doanh nghiệp BĐS công nghiệp sẽ gặp khó khăn do rủi ro thuế quan.

Lợi suất thấp kỷ lục khiến Ngân hàng Trung ương Trung Quốc ngừng mua trái phiếu chính phủ Sẽ có 217 nghìn tỷ đồng trái phiếu đáo hạn năm 2025

VARS: Nghị quyết 68 mang đến cơ hội bứt phá cho thị trường bất động sản trong trung và dài hạn

Mới đây, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về Phát triển kinh tế tư nhân. Nghị quyết xác định rõ kinh tế tư nhân là “một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia”.

Cơn sóng ngầm cổ phiếu bất động sản Ước tính KQKD quý I/2025 của loạt doanh nghiệp bất động sản "hot": Vinhomes có thể tăng trưởng hơn 1.200%, KDH tăng 700%

Những đầu tàu kinh tế tư nhân Vingroup, Thaco, Hòa Phát, FPT… đang đóng góp bao nhiêu vào ngân sách Nhà nước?

Trong năm 2024, Vingroup đã nộp ngân sách Nhà nước hơn 56.000 tỷ đồng, trong khi, Thế Giới Di Động, Hòa Phát, FPT cũng lần lượt đóng góp 19.700 tỷ đồng, 13.400 tỷ đồng và 9.200 tỷ đồng.

Bội thu ngân sách 9 tháng đạt gần 192 nghìn tỷ đồng 11 tháng, thu ngân sách nhà nước vượt 6,3% dự toán năm 2024

GDP 2024 đạt 475 tỷ USD, Việt Nam cần bao lâu để vượt mốc 1.000 tỷ USD?

Dữ liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho thấy, quy mô GDP Việt Nam theo giá hiện hành vào năm 1986 ghi nhận ở mức 43 tỷ USD. Đến năm 2008, con số này đã tăng lên mức 125 tỷ USD, cao gấp 3 lần so với thời điểm 1986.

GDP Việt Nam ảnh hưởng ra sao sau quyết định áp thuế đối ứng của Mỹ? GDP quý I/2025 của Việt Nam tăng 6,93%, cao nhất trong vòng 6 năm

Đẩy nhanh tiến độ dự án đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện số 54/CĐ-TTg ngày 30/4/2025 về việc đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng.

Tp.HCM chưa đầu tư mở rộng vành đai 3 giai đoạn 2, dành vốn làm thêm cao tốc khác Bộ GTVT ưu tiên hơn 55.000 tỉ đồng mở rộng ngay 5 tuyến cao tốc này

Thuế đối ứng sẽ làm lãi suất ngân hàng thay đổi như thế nào?

Các chuyên gia cho rằng Ngân hàng Nhà nước vẫn còn dư địa điều hành chính sách tiền tệ. Cụ thể, nhà điều hành sẽ giảm lãi suất, kiểm soát cung tiền để ổn định tỷ giá, lạm phát.

Nâng mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2025 lên 16% NHNN đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng khoảng 16% cho mục tiêu tăng trưởng GDP 8%

Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Mỹ ra sao trong tháng 1/2025

Cập nhật mới nhất từ Cục Thống kê (Bộ Tài chính) cho thấy, trong tháng 1/2025, Việt Nam xuất sang Mỹ lượng hàng hóa trị giá khoảng 10,49 tỷ USD trong khi nhập khoảng 1,15 tỷ USD.

Kỷ lục mới của kinh tế Việt Nam: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2024 đạt 786,29 tỷ USD Tổng thống Donald Trump áp thuế 25% đối với tất cả các loại thép, nhôm nhập khẩu

Sắc đỏ bao trùm thị trường hàng hoá sau "cú sốc" thuế quan

Sở Giao dịch Hàng hóa Việt Nam (MXV) cho biết thị trường hàng hóa nguyên liệu thế giới vừa trải qua một tuần biến động rất mạnh và nhiều bất ngờ. Toàn bộ thị trường năng lượng và kim loại chìm trong sắc đỏ. Chỉ số MXV-Index lao dốc tới hơn 6,5% xuống mức

Mỹ nâng thuế nhập khẩu nhôm, thép từ Canada lên 50%, thị trường hàng hoá tăng mạnh Cổ phiếu GEX tiếp đà “thăng hoa”, VN-Index thoát hiểm phút cuối

Quý I/2025: Tín dụng tăng gấp 2,5 lần cùng kỳ, lãi suất cho vay tiếp tục giảm

Tính đến hết quý I/2025, tăng trưởng tín dụng đạt 3,93% gấp 2,5 lần so với mức 1,42% cùng kỳ năm trước. Lãi suất cho vay tiếp tục giảm 0,4% so với cuối năm 2024 cho thấy nỗ lực của hệ thống ngân hàng trong việc hỗ trợ nền kinh tế

TP. Hồ Chí Minh: Tín dụng năm 2024 tăng 11,34% Nâng mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2025 lên 16%